Subscribe:

Thứ Năm, 13 tháng 12, 2012

GS. Trần Phương kể chuyện về hành trình tìm mộ em gái

GS. Trần Phương - Kể chuyện về hành trình tìm mộ em gái

Tôi có một cô em gái, kém tôi hai tuổi (sinh năm 1929) tên là Vũ Thị Kính, nhỏ gọi chạnh là Cánh. Từ hồi kháng chiến chống Pháp đến nay hay gọi bí danh là Trần Thị Khang. Cô tham gia cách mạng năm 16 tuổi, … là một giao liên gan dạ, một các bộ phụ vận có uy tín. Năm 1950 cô là huyện uỷ viên của Đảng bộ Phù Cừ (ĐCSVN), Bí thư phụ nữ cứu quốc huyện. Người tổ chức và chỉ huy đội nữ du kích Hoàng Ngân trong huyện. Tháng 6 năm đó, địch bắt cô từ hầm bí mật đưa về bót La Tiến (bót đóng ngay trên bến đò La Tiến) là một bót khét tiếng tàn ác, một đồn binh án ngữ phía Nam tỉnh Hưng Yên, phía Bắc tỉnh Thái Bình và phía Tây tỉnh Hải Phòng. Địch đã dùng mọi cực hình tra tấn buộc cô phải khai báo và đầu hàng. Nhưng không lay chuyển được cô, chúng giết cô và vứt xác xuống dòng sông Luộc. Sau khi cô hy sinh, đội nữ du kích của huyện đã phát động phong trào "Tuần lễ giết giặc trả thù cho chị Khang”. Chính phủ đã trao tặng cho Cô huân chương kháng chiến hạng nhì.
Huyện uỷ và đội du kích Hoàng Ngân đã đi tìm xác cô, nhưng không thấy. Đây là nỗi xót xa day dứt của gia đình tôi suốt mấy chục năm qua, mặc dù biết rằng người chết thì nỗi đau xót cũng chấm dứt. Mẹ tôi hồi còn sống thỉnh thoảng lại hỏi tôi: “Có tìm thấy em không?”. Tôi đành tìm lời an ủi mẹ: “bao giờ hết chiến tranh con sẽ tổ chức việc tìm kiếm em, chắc là đựoc mẹ ạ”. Nói thề mà lòng tôi như muốn khóc vì biết mình bất lực trước nỗi đau của mẹ. Cả một dòng sông Luộc mênh mông như thế trôi ra biển cả biết tìm kiếm nơi đâu!
Mười năm lại đây, nghe tin nhiều người tìm được hài cốt người thân bằng cách gọi hồn, bằng ngoại cảm, bằng thấu thị. Tóm lại bằng phương pháp được xem là thần bí, chưa ai lý giải được. Tôi vốn được đào tạo theo tinh thần của khoa học thực nghiệm: Cái gì chứng mình được thì mới tin là có; Cái gì chưa chứng mình được là dứt khoát không tin. Trong đời tôi, chưa bao giờ tin là có tinh thần, thần thánh, ma, quỷ v..v.. Những ngày giỗ bố mẹ, tôi không làm cơm cúng, thắp hương, chỉ sửa lại một lọ hoa tươi để tự mình tưởng nhớ. Vậy khi nghe những tin trên tôi bỗng lóe ra một niềm hi vọng mong manh: “Biết đâu đấy!”. Nếu bằng phương pháp khoa học thần bí mà tìm được hài cốt em tôi thì có gì phải câu nệ, miễn là có cái gì đó để nhận ra hài cốt đúng là em tôi. Đó chính là chuyện khó nói. Sau 50 năm trôi dạt, hài cốt có còn gì để nhận ra em tôi. Nếu còn, thì may ra được hàm răng không nhuộm đen. Nhưng thời đó, thiếu gì con gái không nhuộm răng đen. Lúc đó, chính tôi cũng phân vân: Nhận một bộ hài cốt mà trong lòng nghi hoặc, mỗi khi tưởng niệm thì phỏng có ích gì! Còn khám nghiệm AND? Đó là chuyện xa vời.
Trong tình cảnh bất lực của mình và khoa học thực nghiệm bất lực thì cứ phương pháp nào giảu tỏa được nỗi day dứt trong tôi và gia đình tôi đều được xem trọng. Nghĩ thế, tôi bèn tìm cách tiếp cận những nhà ngoại cảm có tiếng tăm. Một số thông tin bảo rằng hài cốt vẫn còn, nhưng chưa có ai chỉ rõ nơi chôn cất.
Chú em tôi – chú Quỳnh – ăn chực nằm chờ ở nhà Nguyễn Văn Liên (Tứ Kỳ - Hải Dương) hơn một tháng, cuối cùng được ông vẽ cho một bản đồ phần mộ. Nhưng mộ lại nằm ở huyện Khoái Châu là nơi cách La Tiến mấy chục cây số về thượng lưu. Suy luận rằng chú em tôi chưa hẳn đã đủ thân thiết với cô chị, vì vậy mà thông tin không được chính xác, bản thân tôi tìm đến ông Liên, nhưng chờ mãi, ông vẫn chưa nhận được thông tin gì để mách bảo cho tôi.
Giữa lúc ấy thì tôi gặp chị Tuyết Nga là người đã nhờ ông Liên mà tìm được bố mẹ bị giặc sát hại từ những năm 1950 đã khuyên tôi nên tìm bạn chị là anh Nguyễn Văn Nhã, một người nổi tiếng ở miền Nam vì đã tìm được nhiều mộ liệt sĩ. Chị gọi điện cho anh Nhã và ngay chiều hôm đó anh bay ra Hà Nội.
Sớm ngày hôm sau 25/7/1999, tôi gặp anh Nhã. Anh chưa đến 50 tuổi, một kỹ sư hoá. Đảng viên nhiều năm làm công tác đoàn thanh niên TP HCM, theo anh nói thì anh mới có khả năng đặc biệt từ trước Tết không được ai huấn luyện cả. Anh đã vẽ hơn 600 ngôi mộ, tỉ lệ trúng đạt 60%. Có trường hợp trúng đến mức chính anh cũng phải kinh ngạc, “thông tin” đến với anh như thế nào thì anh vẽ thế ấy. Còn thông tin từ đâu đến, trúng hay trật, đối với chính anh cũng là điều bí ẩn.
Trong căn phòng làm việc của tôi, không có hương khói gì cả, anh hỏi tôi và cô vợ tôi mấy thông tin đơn giản: Cô em tên gì, sinh năm nào, hy sinh ngày tháng nào, ở đâu, người đi tìm tên gì. Anh hỏi bến đò La Tiến thuộc xã nào, huyện Phù Cư thuộc tỉnh nào, bến đò ấy có cây cầu không (chứng tỏ anh chẳng biết gì về vùng đất đó cả), rồi anh lấy một tờ giấy to và bút màu ra vẽ bản đồ, vẽ một cách thư thả không gạch xoá gì cả. Mọi việc diễn ra trong vòng mười phút.
Nhìn vào bản đồ tôi thấy anh vẽ con sông uốn lựơn, đường to, đường nhỏ giao nhau, rồi ghi: từ bến đò La Tiền đi về hướng Đông Nam thấy một trường học, đi khoảng 1,6km thì thấy một ngã tư, phía trái ngã tư thấy một quán tạp hoá có cửa màu xanh dương, lúc đó rẽ tay phải thấy một cái đình, đi vài 1km thì thấy một con đường nhỏ, đi chừng 60m rẽ phải đi chừng 45m thì đến phần mộ. Mộ nằm trên đất cô Nhường 47 tuổi, đối diện với về phía Tây Nam là quán ông An 56 tuổi. Mộ chôn đầu về phía tây, cách một gốc cây độ 4 tấc một cục gạch vỡ màu nâu đỏ và năm cây cỏ dại có hoa màu tím nhạt.
Rồi anh hỏi tôi bao giờ thì đi tìm mộ? Tôi trả lời: Để chuẩn bị thì phải hai tuần nữa. Anh nói chậm quá, nên đi sớm. Tôi quyết định 3 ngày nữa thì đi, anh nói “tôi phải cho anh một tín hiệu để tìm. Hai con bươm bướm nhé?” Tôi nói hai con bươm bướm thì sợ khó tìm. Anh ngẫm nghĩ một lát rồi nói: Vậy tôi cho anh một bé gái nhé? Rồi anh ghi vào tấm bản đồ: 13h30 ngày 28/7 sẽ có một bé gái chừng mười một tuổi, mặc áo hoa xanh đến gần mộ. (Tôi không hiểu bằng cách nào mà anh điều cho tôi môt cô bé gái đến vào giờ đó, ngày đó!) Rồi anh dặn: nếu đến sớm thì năm cây cỏ dại có mười bông hoa tím, muộn thì có năm bông.
Ngạc nhiên quá tôi hỏi anh: Anh không biết gì về vùng đất đó vậy dựa vào cái gì mà anh vẽ ra tấm bản đồ chi tiết vậy?
Anh nói: Tôi thấy trong đầu tôi hiện ra như thế nào thì tôi vẽ như thế ấy, tôi cũng chẳng hiểu nữa.
Tôi lại hỏi: Còn những tên người kia, tại sao là đất cô Nhường, quán ông An?
Anh nói tôi thấy như trong tai tôi có âm thanh ấy, có thể là Nhượng, Nhường, Nhương gì đó, cũng có thể 47 hay 87 tuổi. Còn An cũng có thể là Am. Anh còn dặn thêm: có thể xem cái bản đồ này là từ âm bản. Lời dặn này lúc đó tôi không để ý lắm.
Vẽ bản đồ và trao đổi trong vòng nửa tiếng, anh Nhã chia tay tôi để vội vã bay về TP HCM, nơi anh đang phải điều hành một công ty tư vấn.
Về phần tôi tin hay không vẫn phải làm theo chỉ dẫn của anh, vì còn cách nào khác đâu?

Tìm mộ - Ngày thứ nhất.
Đúng hẹn, ngày 28/7 cả gia đình tôi phóng về bến đò La Tiến, cách Hà Nội chừng 100km. Chúng tôi chia nhau làm nhiều ngả, đối chiếu với bản đồ mà tìm. Tất cả các ngả đều không tìm được dấu hiệu khớp với bản đồ, trừ một ngả hướng thẳng vào giữa làng La Tiến.
Hướng này do anh Đạt, một cán bộ về hưu có cái quán giải khát ở bến đò, nói cái bản đồ này vẽ theo đường ngày xưa, ang áng như bây giờ thôi, có mấy đoạn đã được nắn lại. Tuy nhiên đường từ bến đò đến nơi ghi là phần mộ rất ngắn, chỉ bằng 1/3 cự ly ghi trong bản đồ. Tôi dùng điện thoại di động hỏi anh Nhã, anh trả lời miễn là tìm thấy dấu hiệu đã ghi, nhất là bốn dấu hiệu nơi phần mộ, còn cự ly có thể do anh ứơc lượng không chính xác.
Lần theo hướng ghi trên bản đồ và các dấu hiệu trên đường (trường học, đình, quán tạp hoá có cửa màu xanh nước biển, đến ngã tư rẽ trái, rồi rẽ trái, rồi rẽ phải tất cả đều đúng), chúng tôi đến đất nhà ông Điển, một nông dân kiêm thợ nề 60 tuổi. Cả hai vợ chồng đều gầy gò nhưng tốt bụng. Ông bà sẵn sàng cho chúng tôi bới tìm hài cốt liệt sĩ mặc dù không tin rằng đất hông đê lại có hài cốt liệt sĩ. Ông bà Điền cũng như rất nhiều người khác đều chỉ chúng tôi ra bãi đất phía ngoài vụng đê, cạnh vụng Quạ (gọi thế vì có nhiều quạ bay tới vụng để ăn xác chết bị cuốn vào vụng) mà từ nhà ông Điển nhìn ra thì về hướng đông chưa đến nửa cây số. Cạnh vụng Quạ, vẫn còn ba cái mộ vô thừa nhận. Chúng tôi đến đó xem rất kĩ nhưng không thấy dấu hiệu nào của anh Nhã đã cho, đành quay về nhà ông Điển theo đúng bản đồ.
Giữa mảnh đất rộng chừng hai sào, có một ngôi nhà gạch hướng đông nam, trước nhà là sân gạch tường hoa, một mảnh vườn hẹp lơ thơ mấy mảnh dây lang, rồi đến một cái ao to, tiếp đó là con đường làng, một cái đầm sen mênh mông, rồi đến một con đê sông Luộc chạy dài từ Tây sang Đông. Sau nhà là một vừơn chuối được dọn sạch sẽ, không có một ngọn cỏ. Đầu hồi phía đông là đường vào ngôi nhà. Vậy chỉ còn tìm kiếm ở đầu hồi phía Tây. Vườn phía này rất rộng, trồng táo mít um tùm, dưới gốc đầy cỏ dại, toàn một loại bằng hạt thóc, màu tím nhạt, tìm một ngàn cây thì đựơc chứ tìm năm cây thì biết tìm cây nào? Còn mảnh cây khô và gạch thì bừa bãi, đâu cũng có. Sục tìm một hồi lâu chúng tôi đành thất vọng quay ra.
Đứng trước của nhà nhìn về phía chân đê sông Luộc, chếch về phía Tây là ngõ sau nhà anh An, 45 tuổi. Nhà xây bằng gạch để ở chứ không bày biện như một quán hàng. Anh cho biết vợ anh có một gian quán bán cháo lòng lợn ở chợ La Tiến, hàng ngày gánh đến đó, nhưng có ai cần mua tại nhà thì vẫn dành lại để bán. Như vậy thì nhà anh có đáng gọi là quán hàng không? Tôi phân vân nhưng tạm thời gọi là được đi.
Còn đất bà Nhường? Cả làng không có ai tên Nhường hay Nhượng. Chỉ có bà tên Nhương, khoảng 70 tuổi. Bà này thì tôi biết vì cùng hoạt động với em gái tôi. Chính bà mấy năm trước thông qua bà Tiến nhắn tôi về nhận một bộ hài cốt vô thừa nhận mà căn cứ vào hàm răng trắng bà cho là hài cốt của cô Khang.
Dấu hiệu dẫn tôi đến ngôi mộ đã có đủ, nhưng dấu hiệu của chính ngôi mộ thì không thấy. Tôi đành chờ đến 13h30. Vào giờ này giữa trưa hè oi ả, ở cái vùng đất giáp đê sông Luộc này thì kiếm đâu ra một đứa bé mặc áo hoa màu xanh. Vậy chúng tôi phân công nhau đón các ngả đường dẫn đến nhà ông Điểm, buổi trưa vắng tanh, mọi vật như ngừng thở dưới cái nắng chói chang. Quá mười phút, rồi mười lăm phút. Bỗng một tốp thiếu niên ồ ạt đạp xe từ cuối làng tới. Nhưng tất cả đều là con trai. Mấy phút sau, có một tốp con gái cũng đi bộ từ cuối làng tới. Chúng tôi giữ các em lại hỏi thăm. Các em chỉ nhà bà Nhương ở gần ngã tư sau cái đình, ba cô gái dẫn chúng tôi tới đó, còn một bé gái không muốn đi mà dừng lại. Em mặc áo xanh lá cây có hai bông hoa to in trước ngực. Em khai 15 tuổi, nhưng vóc người thì nhỏ hơn tuổi.
Hỏi về những ngôi mộ vô thừa nhận, em chỉ mấy ngôi mộ ở vườn chùa ngay cạnh đó. Chúng tôi biết đấy là những ngôi mộ của những người chết đói năm 45. Em lại chỉ ba ngôi mộ phía ngoài đê cạnh vụng Quạ. Chúng tôi đã đến đó vào sáng nay, em đứng lại với chúng tôi chừng nửa tiếng bên cái ao to trước nhà ông Điển mà không có mục đích gì cả. Phải chăng đó là tín hiệu mà anh Nhã điều cho tôi? Nhưng không khai thác thêm gì ở em cả.
Xế chiều gần như mất phương hướng, tôi lại gọi điện cho anh Nhã. Anh hỏi có thấy rạch nước không? Có thấy cái cống không? (dường như từ Sài Gòn anh nhìn thấy những cái đó!). Rồi anh bảo tôi đi tìm ngôi nhà mà bốn tường đều sơn trắng lốp, trước nhà đầy hoa đỏ.
Cái cống lớn xây bằng gạch cạnh đất chùa, xế nhà ông Điển, thì chính tôi đã ngồi lên đó để hỏi chuyện bé gái. Còn cái lạch nước, hồi lâu mới biết: ba chục năm trước đây, chính cái ruộng sen là một vùng ruộng trũng, ở giữa có một con đường bờ vùng chạy song song với con lạch, dẫn nước qua ruộng chùa vào ruộng mạ nay là đất ở của ông và mấy nhà xung quanh. Cuối những năm 60, để lấy đất bồi đắp con sông Luộc, người ta đã biến vùng ruộng trũng thành cái đầm sen bây giờ, nó chạy dài gần một cây số ven đê và rộng chừng vài trăm mét. Con đường và cái lạch cũng biến mất trong lòng cái đấm sen ấy.
Chúng tôi ngó nghiêng khắp làng để tìm “ngôi nhà mà có bốn mặt sơn trắng lốp”. Chẳng có cái nào, mọi nhà đều quét vôi vàng hoặc xám. Bỗng anh Tân Cương (một cộng sự của tôi trong nhiều lần đi tìm mộ) chỉ vào cái quán bên đường: hay cái này? Đó là cái quán nước mà chúng tôi ngồi từ sáng tới giờ. Quán nhỏ và thấp lè tè, xây bằng gạch, đủ kê một cái giường và một cái chõng bày bán giấy gói kẹo và mấy chai nước ngọt. Quán mới xây cả bốn mặt đều quét vôi trắng xoá. Một cái quán nhỏ cũng có thể xem là một ngôi nhà được chứ? Tạm cho là như vậy. Nhưng còn hoa đỏ? Tìm đâu ra ở cái quán nghèo nàn mới xây ấy những hoa đỏ? Tìm tòi hồi lâu anh Tân Cương chỉ cho tôi cái đầm sen trước mặt. Giữa mùa hè, đầm sen là cả biển hoa đó. Có thể là như vậy chăng?
Chủ quán là một bà lão hom hem. Nhà cụ giáp ông Điển về phía Tây. Cụ cho xây cái quán ngay cạnh đường làng, lối đi vào nhà cụ mà cũng là cái bờ ao nhà ông Điển. Hỏi tên tuổi thì cụ cho biết là Mân, đó là tên chồng, còn tên thật của cụ tên là Nguyễn Thị Nhờ, năm nay 81 tuổi.
Sục sạo đến tối mịt, chúng tôi đành quay về Hà Nội. Tôi gọi điện cho anh Nhã. Anh bảo tìm được cái quán trắng làm mốc là tốt rồi. Cự ly so với bến đò có gần hơn không sao. Có trường học, có ngã tư, có quán màu xanh dương, có cái đình, có cái cống không? Có lạch nước không? (Tôi báo cáo cho anh biết kết quả tìm được). Anh động viên nên tìm kiếm liên tục. Hôm nay chưa thấy thì mai lại đi. “Chỉnh mộ” là một quá trình vất vả lắm đấy, không thể một lần mà trúng ngay được.
Rồi anh chỉ dẫn cho tôi ngày mai phải làm gì: 8h sáng mai phải có mặt ở cái quán trắng. Tôi hoặc con tôi (một người ruột thịt của cô Khang) thắp hai mươi nén hương ở lối đi bên cạnh. Khoảng 8h00 hay 8h30 có một con chó vàng nâu đến cách đó mười mét, nó nhìn xem mình có đi theo nó không rồi nó quay đi, thỉnh thoảng nó nhìn lại xem mình có đi theo nó không. Hãy đi theo nó, giữ một khoảng cách. Nó sẽ đi hơn 100m rồi dừnglại, ngửi và bới. Nhớ lấy chỗ đó rồi quan sát, tìm những dấu hiệu phần mộ như đã ghi trên bản đồ. 
Nếu dấu hiệu không xuất hiện thì chờ đến 8h30 hay 9h, tìm kiếm quanh vùng sẽ thấy một con chó nằm một chỗ như ốm. Đánh dấu chỗ đó mà đào, đào thấy thì con chó sẽ hết ốm. Khi nào thấy tín hiệu thì gọi lại để anh chỉ dẫn tiếp.

Tìm mộ - Ngày thứ hai
Chúng tôi lại đến làng La Tiến, làm đúng những việc anh Nhã dặn. Chúng tôi chia nhau đi tìm các ngả để xem có con chó vàng nâu nào tiến về phía quán trắng không. Quán 8h30 mà không thấy tín hiệu thứ nhất xuất hiện, chúng tôi đành chia nhau đi vào nhà quanh vùng. Nhà nào cũng nuôi chó vàng, thấy người lạ vào chúng sủa inh ỏi, không có con nào nằm một chỗ như ốm. Cô em tôi mấy lần vào nhà cụ Nhờ, ngó nghiêng xó xỉnh. Cuối cùng cô phát hiện phía sau sân bên trong gian nhà phụ, dưới gầm giường, có một con chó vàng nằm ệp. Chúng tôi lần lượt ngó vào nhưng nó vẫn nằm, chỉ ngước nhìn mà không sủa. Hỏi chủ nhà biết nó có chửa, chê cơm mấy bữa nay, tôi liền điện cho anh Nhã. Anh bảo kiếm trong vòng bán kính mười mét xem có những dấu hiệu của phần mộ không?
Từ chỗ con chó nằm tôi vạch một vòn tròng bán kính 10 mét. Hầu hết vòng tròn bao lấy nhà và sân của cụ Nhờ, chỉ có một mẩu nhỏ lấn sang dải tường hẹp trước tường hoa nhà ông Điển. Dải vườn này hôm trước chúng tôi đã đi qua mà không thèm để ý đến mấy vạt rau lang. Hôm nay tập trung vào một diện tích hẹp, anh Tân Cương phát hiện ra gốc cây đổ vùi dưới lớp dây lang, gốc to bằng bắp chân, dài hơn gang tay, nằm sát đất, trên thân cây lơ thơ mấy cái chồi cằn cỗi. Ông Điển cho biết đó là cây nhót mà ông chặt đi từ năm ngoái, nhưng chưa kịp đánh gốc, cách gốc cây nhót về hướng đông chừng 2m, chúng tôi thấy nửa viên gạch vỡ màu nâu đỏ nằm cạnh một cành cây khô to bằng cổ tay, dài nửa mét. Nhìn tiếp về hướng đông chừng ba mét nữa, dưới tán cây cam thấp lùn, chúng tôi reo lên khi thấy một dẫy cây hoa màu tím nhạt, vượt lên trên đám dây lang, đếm được đúng năm gốc, mỗi gốc mang hai bông hoa to và dài bằng ngón tay! Cây hoa mọc theo đường thẳng dài ba mét từ tường hoa ra phía bờ ao. Ông Điển cho biết mấy năm trước ông trồng làm cảnh sau chán vứt ra vườn.
Sau khi xét lại kĩ càng, tôi gọi điện cho anh Nhã. Anh bảo từ gốc cây đổ đến gốc hoa tím, vẽ thành một hình tam giác, rồi đứng vào giữa đánh dấu lại. Lấy một chiếc đũa cắm vào chỗ đó, rồi tự tay tôi (phải là ruột thịt) đặt một quả trứng lên đỉnh chiếc đũa, nếu quả trứng đứng im nghĩa là đúng. Nếu quả trứng không chịu nằm yên thì cắm chiếc đũa lùi lại nửa mét.
Bà Điển vội vã rút cho tôi một chiếc đũa, rồi chạy vào ổ gà lấy cho tôi một quả trứng mới đẻ. Nhìn chiếc đũa tre còn mới tôi thầm nghĩ: nghèo quá, đến chiếc đũa tre cũng khẳng khiu! Với chiếc đũa này lão Nhã chắc đánh đố mình đây. Rồi tôi suy luận chẳng nhẽ cô em mình lại có sức hút mạnh hơn trọng lực trái đất ư? Vấn đề là ở chỗ cắm cho thật cân và không được xúc động.
Tôi loay hoay mãi với quả trừng. Ngắm nghía thật lâu rồi mới đặt xuống, nhiều lần như vậy. Đặt nằm rồi lại đặt đứng. Nó vẫn lăn bo bo xuống đất. Người tôi vã mồ hôi. Mấy chục người xung quanh dán mắt vào quả trừng như nín thở. Tôi nghĩ: chỉ tại cái đũa chết tiệt, tiết diện nhỏ quá mà không phẳng thì tài gì mà đặt quả trứng cho cân.
Tôi bèn lùi lại nửa mét, mặt vẫn hường vào tường hoa. Cắm chiếc đũa thật thẳng rồi đặt quả trứng như mọi lần. Kỳ lạ quá nó nằm im trên đầu đũa, tựa như có chất keo gắn vào đầu đũa. Tôi không tin có sự can thiệp gì của cô em gái tôi (vì làm gì có linh hồn mà can thiệp? Mà có linh hồn thì đâu phải là một lực tác động vật chất?). Nhưng vẫn thở phào nhẹ nhõm, vì nếu không qua được thử thách này thì không thể nào đi tiếp bước sau.
Tôi gọi điện cho anh Nhã. Anh bảo: lấy quả trứng làm tâm, vẽ một hình chữ nhật dài 2m, rộng 1,2m rồi đào sâu xuống 1,5m cho đến lớp cát đen, hài cốt không thể nằm sâu hơn lớp đất đen đó.
Lúc ấy đã gần trưa, chúng tôi tạm nghỉ, ra bến đó La Tiến ăn cơm hàng. Trời nắng gắt bỗng ụp xuống cơn mưa như trút nước kèm theo gió to kéo dài gần một tiếng. Chúng tôi bảo phen này thì đền quả trứng của bà Điển là cái chắc. Khi quay về thì lạ quá quả trứng vẫn yên vị trên đầu chiếc đũa. Chẳng nhẽ trời mưa bao giờ cũng có hai giọt nước cân bằng rơi xuống đầu quả trứng? Còn gió to nữa, chẳng nhẽ nó không tác động đến quả trứng?
Để chuẩn bị cho thợ đào đất, tôi gỡ quả trứng ra khỏi chiếc đũa. Hai tay tôi cảm thấy một sức hút nhẹ. Phải chăng nước mưa đã làm giãn nở quả trứng và chiếc đũa tre, khiến vỏ trứng gắn chặt vào đầu đũa?
Hai tốp thợ thay nhau đào đất. Sâu 1,2m thì hết lớp đất mầu nay là lớp “vượt thổ” đến lớp bùn đen pha cát. Vừa đào chúng tôi vừa soát từng mảnh đất đào lên xem có hài cốt không? Đến độ sau 1,5m vẫn không thấy gì cả.
Tôi gọi cho anh Nhã. Anh bảo: phát triển về hướng nam và đào sâu thêm bốn tấc nữa. Chiều rộng của cái hố được mở thêm nửa mét về phía bờ ao và đến tối mịt thì chiều sâu đạt đến 2,8m. Vẫn không thấy gì chúng tôi đành quay về Hà Nội.
Tôi gọi điện cho anh Nhã. Anh bảo thử đào sâu thêm vài tấc nữa. Thực ra thì cái hố đã sâu quá mức rồi. Tôi cảm thấy “thầy” đã hết phép. mặc dù ngày mai tôi vẫn quyết định đào tiếp.

Tìm mộ - Ngày thứ ba
Qua hai ngày dậy từ bốn giờ sáng, mãi 11h khuya mới về nhà, cái tuổi 72 của tôi cảm thấy đuối sức. Tôi uỷ nhiệm cho mấy đứa con tôi và bà chị gái tôi và anh Tân Cương đi tiếp. Tôi dặn không đào sâu thêm nữa làm gì chỉ soát lại cái đống cát đen vừa đào xới lên, hoạ may tìm thấy mảnh hài cốt nào thì đem về, nếu không thì “thu dọn chiến trường rồi về”. Họ làm đúng như thế.
Thấy chúng tôi không thu được kết quả gì, nhiều cụ già, nhất là các cụ về hưu, xúm lại bàn bạc: Đã bảo mà! Tìm ở ngoài đê quanh cái vụng Quạ thì không, lại tìm trong đê! Làm gì có xác trôi sông lại vượt đê để vào trong đồng! Chị Tiến và chị Phương cũng có mặt, hai chị khuyên chúng tôi nhận lấy bộ hài cốt răng trắng chôn ở gốc đa phía trên bến đò.
Duy có anh Thìn, con của ông Giám, hiện là hiệu trưởng trường cấp hai, thì nói bố anh hồi đó có vớt được ba cái xác – hai nữ, một nam.
Một nam kéo qua đê, rồi chôn ở cánh đồng này. Cụ Giám theo dân làng nói là người rất nghèo (làm nghề đơm đó và đánh dậm) nhưng bạo gan, nhà ai có việc đào huyệt, bốc mộ thì đều nhờ cụ, cả những cháu bé bị chết, cụ cũng sẵn sàng vác lên vai đem đi chôn giúp. Từ hồi kháng chiến chống Pháp, có nhiều xác chết nổi lên ở vụng Quạ, làng cũng giao cho cụ vớt lên chôn cất. Cụ Yên cũng xác nhận rằng cụ Giám được phụ cấp để làm việc đó, nếu có xác chết chôn ở đây thì cũng chỉ nhờ tay cụ Giám mà thôi. Cụ Đông thì nhất quyết bài bác làm gì có chuyện đó! Anh Thìn đưa ra thông tin trên là dựa vào sự tiết lộ của cụ Giám. Nhưng cụ đã chết cách đây mười tám năm. Hồi còn sống, cụ đã được tặng bằng khen vì những thành tích trong kháng chiến chống Pháp.
Tôi gọi điện cho anh Nhã. Anh nói: Nghe gia đình báo cáo đã tìm thấy đầy đủ chi tiết ban đầu thì tôi cũng tin, tuy rằng cự ly có phần không đúng. Bây giờ thì phải lật cái bản đồ xem từ âm bản. Tôi hỏi: Như vậy phần mộ có thể nằm phía bên kia sông, tức là trên đất Thái Bình? Anh nói: Phải vậy đó, rồi anh dặn tiếp: Phải tìm đến cái vụng xoáy - một cái vụng xoáy do nước xoáy vào bãi sông mà tạo thành, ở đó có một xóm mới ra ở đó khoảng hai mươi năm, trong đó có cô Nhường, có ông An. Mộ nằm trên đất cô Nhường, trên mộ vẫn có những dấu hiệu như đã chỉ. 

Tìm mộ - Ngày thứ Tư và thứ Năm 
Các con tôi, vốn đã không tin vào phương pháp thần bí, đều không muốn đi tiếp. Các lão già (chị và các em tôi) thì đều đã mệt mỏi. Chỉ có anh Tân Cương là vẫn vững lòng tin vì chính anh đã nhờ vào những bà ngoại cảm mà tìm được mồ mả gia tiên. Anh nhận giúp tôi tìm kiếm tiếp. Anh cùng với anh Đạt, vượt bến đó La Tiến sang đất Thái Bình, đi dọc sông để tìm cái vụng xoáy, chốc chốc lại gọi điện thoại di động về. Xế chiều cách bến đò La Tiến chừng mười tám cây số, một cụ già bảo anh: Phía Thái Bình không có vụng xoáy đâu. Vì nước sông ở đoạn này quật sang đất Hưng yên. Cụ chỉ sang vụng bà Khán Mỹ bên kia sông. Gọi thế vì bà Khán Mỹ nhiều năm sinh sống trên vụng đó bằng thuyền đánh cá. Vậy lại qua sông để trở về đất Hưng Yên. Cạnh vụng bà Khán Mỹ, trên bãi đất có một xóm mới, trong đó có một chị tên Nhường, một anh tên An, có mấy ngôi mộ vô thừa nhận, nhưng chẳng có dấu hiệu nào khớp với bản đồ mà anh Nhã cho.
Anh Tân Cương đi tiếp một ngày nữa, từ vụng bà Khán Mỹ ngược lên vụng Quạ. Nơi nào có mộ vô thừa nhận là anh đến nhưng chẳng tìm thấy dù những dấu hiệu anh Nhã đã cho.
Cuộc tìm kiếm theo đủ mọi hướng đến đây xem như tắc tỵ. Cánh tính hoài nghi khoa học của tôi lại trỗi dậy! Tôi nghi: Lão Nhã này hắn đánh đố mình! Hắn bày ra một “Trận đồ bát quái” nào là dấu hiệu, tín hiệu, tên người, tên đất, rồi bảo mình phải tìm cho đủ. Lục tìm cả nước này, chưa chắc có nơi nào khớp với “trận đồ bát quái” của hắn!
Nghĩ thế rồi lại tự trách mình là vô lý. Đã chấp nhận đi theo “thầy” Nhã mà tỉ lệ trúng mộ chỉ đạt 60% thì lý gì lại thắc mắc khi trường hợp của mình lại rơi vào 40% kia? Đã chấp nhận đến con đường thần bí như nguồn hi vọng cuối cùng thì lý gì phải đòi hỏi phải lý giải “trận đồ bát quái” kia?

GỌI HỒN
Theo đuổi hai nhà ngoại cảm nổi tiếng, đã vẽ trúng hàng trăm ngôi mộ liệt sĩ, nhưng đến lượt mình thì “không có duyên”, tôi bàn với anh Tân Cương chỉ còn tìm cách đến những người có khả năng gọi hồn. Theo tin của anh thì có Phan Thị Bích Hằng đã mất khả năng đó vài năm nay rồi, anh giúp tôi liên hệ với một bà ở Cẩm Giàng và một bà ở Hải Phòng. Chị Tuyết Nga cũng khuyên tôi nên tìm theo hướng đó. Chị cho tôi một địa chỉ điện thoại mà điều tra thì đó chính là địa chỉ của cô Bích Hằng. Trong quá trình tìm mộ, tôi thường hay kể lại với bạn bè khi rảnh rỗi. Tình cờ một hôm, anh Trần Công Bảy biết tôi có ý định gọi hồn, liền nhận giúp tôi liên hệ với cô Bích Hằng. Cô nhận lời giúp tôi vào chiều ngày 9/8/1999.

Ngày 9/8/1999 - Tiếp xúc với linh hồn:
Qua cô Bích Hằng, tôi hy vọng có được một thông tin về phần mộ em tôi, nhưng điều quan trọng hơn là: kiểm nghiệm xem có phải thực sự linh hồn còn tồn tại sau khi người ta chết hay không. Tôi lục tìm trong trí nhớ xem những vụ mà chị tôi và em tôi biết, để kiểm tra xem có thật là linh hồn em tôi đang nói chuyện với tôi không. Dự buổi gọi hồn chỉ có chị và em gái tôi, nhưng tôi vẫn dặn không ai được nói chuyện, đề phòng hớ hênh, để lộ thông tin cho “thầy bói nói dựa”.
Bích Hằng là một cô gái nhỏ nhắn, xinh xắn và thuỳ mị, năm nay 27 tuổi, tốt nghiệp đại học kinh tế quốc dân, hiện đang làm kế toán cho công một công ty xây dựng quân đội, đồng thời đang theo học lớp đào tạo thạc sĩ quản lý kinh doanh do trường đại học Oxford (Anh) tổ chức tại Hà Nội.
Tôi hỏi cháu có khả năng đặc biệt này từ bao giờ, cô nói: 
- Từ khi cháu đang còn học phổ thông, sau khi bị chó dại cắn, lên cơn nhưng không chết. Cô bạn cháu cũng bị chó dại cắn thì chết. Một hôm giỗ bà nội, cháu nhìn lên bàn thờ thấy bà ngồi cũng hai đứa bé, cháu hỏi ông nội: "Hai cậu bé ngồi cùng ông nội là ai?" Sau một hồi kinh ngạc, ông giải thích: "Người con thứ nhất của bà được hơn một tuổi thì chết, người con thứ ba – sau bố cháu - được hơn hai tuổi thì chết". Từ đó trở đi, khi đi ngang qua nghĩa địa, cháu nhìn thấy vô số là vong hồn, người nằm người đứng, khi tỏ khi mờ giống như nhìn vào cái màn hình bị nhiễu. Mới đầu thì rất sợ, sau cũng quen dần đi.
Tôi hỏi cô: 
- Có tin nói khả năng đặc biệt của cháu suy giảm rồi, có đúng không?
Cháu trả lời: 
- Khi cháu có bầu và sinh con, cháu phải lấy cớ đề từ chối. Bây giờ con cháu đã mười bốn tháng, cháu mới nhận giúp bác.
Khác với anh Nhã, cháu Hằng yêu cầu đặt lên bàn một cốc nước, một cốc gạo để cắm hương, một ngọn nến và một bức ảnh cô Khang… theo cháu nói là để nhận được vong hồn được triệu về có đúng là cô không. Cháu mang theo một sắp tiền đặt lên bàn.
Thắp hương và đốt nến xong, cháu khấn mời cô Khang bằng một giọng nhỏ nhẹ tưởng chừng như cô đang ngồi trước mặt.
Rồi quay sang nói với tôi: 
- Ở căn phòng này bác không thờ cúng bao giờ, có lẽ bác không tin.
Nghe Hằng nói tôi đâm ra lo. Chẳng những không thờ bao giờ mà hơn mười năm nay tôi không ở nhà này. Nhìn quanh cửa kính đóng kín mít (để mở máy điều hoà) thì mùi hương bay đi đâu mà cô nhận biết được? Cháu Hằng có lời mời nhưng cô ở đâu mà nghe thấy được? Nếu nghe thấy thì tìm sao nổi đến địa chỉ này giữa thành phố ồn ào bát ngát? Nếu tìm thấy địa chỉ thì lách qua kẽ hở kia mà vào được?
Một phút chờ đợi căng thẳng trôi qua. Cháu Hằng vẫn dán mắt vào tấm ảnh. Rồi hai phút, ba phút, bỗng cháu Hằng hớn hở: 
- Chào cô ạ, cháu là Phan Thị Bích Hằng. Bác Trần Phương nhờ cháu mời cô về để hỏi cô hài cốt của cô hiện ở đâu?
Rồi Hằng quay sang tôi hạ giọng nói:
- Có một người đàn ông, một thanh niên đi cùng với cô. 
Tôi ngồi im cố đoán người đó là ai?
Cháu Hằng vẫn chăm chú lắng nghe, thỉnh thoảng lại” “vâng .. à, thế ạ, .. cái
gì .. Ngân, cô Ngân hay cái gì?
Qua phiên dịch của cháu Hằng, cô Khang nói: Người thanh niên đi cùng chính là anh Sơn đấy. Anh vẫn thường xuyên đến gặp em (Anh Sơn thật ư? Người anh, người bạn, người đồng chí thân thiết nhất của tôi! Tôi muốn reo lên thật to gọi tên anh. Nhưng tôi cố nén mình lại, chờ xem sao). Anh không có duyên rồi, anh đi tìm em, đối mặt với em rồi mà không đến với em. Từ hôm anh đến, mấy chị em trong đội Hoàng Ngân của em cứ bảo sao lâu quá không thấy anh Phương trở lại. Chỗ em nằm cách chỗ anh đào ba bước chân soải ra phía bờ ao.(Tôi hỏi: Vậy em nằm trên vườn hay dưới ao?) Đến bờ ao cũng còn ba bước chân nữa. Phía trên em chừng hai mét là chị Nguyễn Thị Bê, đội viên đội nữ du kích Hoàng Ngân, quê ở ngay làng La Tiến. Cách chỗ em nằm chừng hai mét về phía Đông là nam, bị bắt từ Hải Dương về, em không biết tên, ba cái một gần như nằm trên một đường thẳng. Hai người kia cùng bị giết một ngày với em. Chúng cột tay ba người lại rồi vứt xuống sông vào nửa đêm. Dân phòng ta có đi tìm nhưng thấy. Mãi mấy ngày sao xác em mới nổi lên. Dân vớt được - thực ra dân cũng là dân phòng giả dạng thôi – đưa về đây chôn, vì thế mà cả ba cái mộ gần sát nhau. Xa hơn còn mấy người nữa. Chỗ này có cả thảy bảy người cơ. Mấy người nổi lên trước thì dân còn lo cho được manh chiếu, còn nổi lên sau thì manh chiếu cũng không có nói gì quan tài (vì cháu Hằng hỏi cô chôn có quan tài không?)
Rồi cô chỉ dẫn tỉ mỉ chỗ cô nằm, với cách đặc điểm cây cỏ xung quanh, bắt đầu từ cây nhãn góc vườn mà tôi nhận ra ngay. Đó là cây nhãn giáp với nhà bà Nhờ, tôi đã ngồi ở đó để theo dõi việc đào mộ…
Tôi hỏi em có biết chỗ em nằm thuộc về đất của ai không? của bà nào không?Cô đáp: Em cũng không biết nữa.
Cháu Hằng hỏi: Hài cốt của cô có còn nguyên vẹn không?
Cô nói: Chúng đánh em gẫy xương sườn, gãy xương cánh tay và xương đòn tay bên phải, gãy hai chiếc răng nanh ở hàm trên bên phải, dập gò má bên trái. Xương cốt hiện nay vẫn còn nhưng đã mủn, vì chôn có quan tài đâu. Hàm dưới cũng đã rụng ra nhưng hàm trên thì vẫn còn nguyên.
Tôi hỏi để kiểm tra: răng của em bây giờ màu gì?
Cô nói: bây giờ màu đen
Tôi vội cãi: nhưng trước đây răng em trắng cơ mà.
Cô nói: Em chưa nói hết. Đen là đen xỉn do bùn đất ngấm vào, chứ không phải đen hạt na. Ngày xưa các anh hay trêu em là có hàm răng đẹp nhất, tươi tắn nhất đội du kích. Rất may là hàm răng em vẫn còn, nó chỉ đánh gẫy của em hai cái răng thôi. Ở đây có mấy chị, nếu anh đào nhầm sang mồ của chị khác thì anh vẫn có thể nhận ra ngay. Vì hàm răng của em không thể lẫn được, cả khuôn mặt em cũng vậy. Tuy gò má có bị dập nhưng cả khuôn mặt thì vẫn còn. Anh có thể dễ dàng nhận ra em. Nhưng khi đào anh phải cẩn thận, vì chỉ cần xúc một xẻng đất là nó vỡ ra ngay.
Mặc dù chỉ được nhắc đến một cách kín đáo nhưng tôi nhận ra ngay những nét đặc trưng của em tôi. Ôi! Người con gái lìa đời năm mươi năm mà vẫn không quên niềm tự hào về nhan sắc của mình được các chàng trai ngưỡng mộ. Nghĩ thế mà lòng tôi xót xa.
Cô dặn tiếp khi đào chú ý cổ tay em còn cái vòng. (Cháu Hằng hỏi: Vòng bằng bạc hay bằng gì? ) – Vòng bằng sắt. Thực đó là cái còng, chúng khoá tay em cùng với tay người đàn ông bị bắt ở Hải Dương.
Tôi hỏi nếu tìm được hài cốt em thì đưa về quê mình, cạnh mộ của bố mẹ hay đưa em về nghĩa trang liệt sĩ của huyện nơi anh Sơn nằm?
Cô nói: - mẹ bảo em: Con là phận gái, về với bố mẹ để sau này con cháu còn tiện thăm viếng, hương khói cho con. Nhưng anh Sơn thì bảo: em đã đi theo đội nữ du kích Hoàng Ngân. Em cứ về nghĩa trang liệt sĩ. Tổ quốc ghi công cơ mà, em về nghĩa trang liệt sĩ có anh có em. Anh Sơn hôm nay cũng về với em đấy.
Cả nửa tiếng im lặng anh Sơn bây giờ mới lên tiếng. Tôi không kìm được nữa thốt lên như muốn khóc: Trời! Anh Sơn!
Anh Sơn hơn tôi bốn tuổi. Anh từng là uỷ viên thường vụ tỉnh uỷ Hưng yên, Sơn Tây, Hà Đông, được điều vào bộ đội khi thành lập Đại đoàn 320, làm trưởng ban tuyên giáo của đại đoàn. Anh hy sinh trong chiến dịch Hà Nam Ninh tháng 6/1951.
Tôi đưa cháu Hằng bức ảnh thủ sẵn trong túi, định bụng sẽ đưa ra hỏi linh hồn về người này. Nếu linh hồn không nhận ra người này thì hẳn là chuyện tào lao. Cháu Hằng xem ảnh, bảo đúng, nhưng trông bác già hơn và gầy hơn trong ảnh. Thực vậy, bước ảnh chụp năm 1948, trong tư thế rất “bảnh trai”, khi anh tôi đang công tác ở Sơn Tây.
Anh nói chú đi tìm em Khang mà chẳng nói với anh một câu. (Tôi xin lỗi anh. Nhưng trong bụng thầm nghĩ: oan cho em quá, em đâu có biết anh vẫn còn tồn tại?). Lần sau chú báo trước cho anh, anh sẽ dẫn đường cho chú đến tận nơi. Người trên này có tâm đấy, nhưng mò kim đáy bể biết chỗ nào mà đào? Ai khoanh cho chú chỗ ấy là họ hiểu biết đấy. Cũng may mà khúc sông hơi cong lại, xác em mình dạt vào, nếu không thì trôi tuột đi rồi.
Mẹ thì khóc thương em nhiều lắm, cứ muốn em về bên mẹ để ôm ấp. Còn anh thì khuyên em về nghĩa trang liệt sĩ. Vì đấy là vinh dự của em mình cơ mà. Tổ quốc ghi công đời mình, họ thắp hương cho mình, chứ đâu chỉ có con cháu trong gia đình mình. Vả lại, đời anh chị em mình đã vậy, chú đến đời thằng An thì nó biết gì! (Tôi giật mình vì “Thằng An” chính là con tôi, 10 năm sau khi anh tôi hy sinh nó mới ra đời). Hôm nay khi đưa em Khang về nghĩa trang liệt sĩ, chú cũng cần nói lại với ba mẹ như thế.
Bỗng cháu Hằng nói như ra lệnh: “Pha chén nước chè!”
Tôi hỏi nhỏ cháu: sao làm như vậy?
Hằng nói- Bác Sơn bảo: Nói chuyện khan thế này thôi à?
Cháu Hằng đứng dậy đi ra ngoài, rồi lại vào ngồi cạnh tôi. Một lát, cháu đứng dậy đi ra cửa, đỡ lấy hai chén trà nóng đặt lên bàn.
Cháu Hằng quay sang tôi nói. Bác Sơn bảo: Ơ kìa thằng An! Nó vào mà không chào Bác.
Cháu Hằng và tôi đều quay lưng ra cửa, không để ý ai đã hé của đưa chén trà vào cho Hằng. Sau mới biết là cháu An nó mới đi làm về.
Bác Sơn nói tiếp: Các cháu hậu sinh nó không biết đấy thôi. Người âm không giúp gì được nhiều, nhưng có lúc đỡ được. Có lần, chỉ cần anh đến chậm một tí thì cháu Trang gặp nguy hiểm rồi (Tôi kinh ngạc khi anh nhắc đến tên cháu Trang, con của cháu An).
Tôi hỏi anh bảo sẽ dẫn đường cho em, làm cách nào mà em nhận biết được?Anh nói: Anh không thể nắm tay chú, nhưng anh sẽ tìm một con vật nào đấy – ong bướm chẳng hạn – sai khiến nó để nó dẫn đường cho chú. Làm việc này đối với người âm khó đấy, nhưng anh sẽ cố. Khi thấy con vật chú gọi nó lại, rồi đi theo nó, đến chỗ nó đậu.
Một lúc lâu cháu Hằng không dịch mà trao đổi gì đó. Tôi chỉ nghe cháu nói “Cháu còn con nhỏ .. vâng, cháu sẽ cố”. Sau này hỏi lại, Hằng nói: cô Khang thuyết phục cháu đi đến tìm mộ cô để nói chuyện với cháu, chỉ cho cháu chỗ đúng cô nằm, kẻo lại đào lệch như lần trước. Bác Sơn cũng dỗ cháu, bác bảo: “Chú Phương chú ấy quen tác phong chỉ huy, ra lệnh. Còn bác thì nhờ cháu”. Bác Sơn bác ấy vui tính lắm. Hễ bác ấy nói là thấy không khí vui vẻ, phấn khởi ngay, còn cô Khang thì có vẻ hơi buồn.
Cháu Hằng lại hỏi: Bác Phương muốn biết ngày giỗ chính xác của cô. Bác ấy chỉ biết vào khoảng 20/6 dương lịch.
Rồi Hằng nói tiếp- Cô cười bảo: Đối với anh Phương thì ngày nào giỗ mà chả được, em bị chúng nó bắt, có được bóc lịch đâu mà biết ngày. Chỉ nhớ có một hôm mười tám hay mười chín gì đó, thằng quan tư bảo “Bọn mày cứng đầu! đến ngày 24 mà không khai thì bắn bỏ”. Anh cứ lấy ngày đó là được. Còn ngày âm thì em không biết là ngày nào.
Anh Sơn bổ sung, cứ qua ngày giết sâu bọ là em Khang lại bảo anh: Sắp đến ngày giỗ em rồi đấy.
Sau này tôi tra lịch thì biết ngày 24/6/1950 là ngày mười sáu tháng năm âm lịch (Canh Dần).
Rồi anh nói tiếp: Hôm này đi tìm mộ em Khang, các cô kiếm ít hoa quả thắp hương cho mỗi chị em, người ta chết cùng nhau, mình chỉ hì hục đào tìm em mình thì người ta tủi. Phía trên mộ cô Khang là mộ chị liên lạc, cấp dưỡng cho đội du kích, người địa phương (cô Khang nhắc là Nguyễn Thị Bê) nên bảo gia đình chị ấy đến mà tìm. Chú Phương kiếm cho anh mấy cái bao (cháu Hằng hỏi bao gì ạ, vâng ạ) Capstan để anh mời anh em. Bây giờ anh cũng chỉ huy trung đoàn đấy.
Bỗng cháu Hằng nói như ra lệnh: Đốt tiền đi sắp đi rồi đấy.
Tôi hỏi cháu: “Sao làm vậy?”
Cháu nói: Bác Sơn bảo.
Chúng tôi vội hỏi đôi điều về đời sống của anh tôi và em tôi. Cô Khang nói: có lần em về thăm chị Nghĩa, chỉ đừng ngoài mà không vào được (Chị Nghĩa là chị lớn nhất trong nhà của tôi).
Anh Sơn nói: Em bị chết trôi sông, đã có ai bắc cầu đâu mà, hễ nhớ chị nhớ em thì chỗ nào cũng đòi vào. Bận sau đi với anh. Bây giờ, công việc ở đây đã xong, đi với anh đến nhà Quỳnh chơi (Quỳnh là em út của chúng tôi, tui là út nhưng đã thành ông lão ngoại 60 rồi. Chỉ riêng cách xưng hô đó cũng đủ nói lên vị thế và tình cảm của người anh cả đối với thằng em út).
Nói rồi biến mất, cuộn băng ghi âm 90 phút cũng vừa hết.
Tôi nghe lại băng ghi âm nhiều lần. Quả thật, có nhiều điều bí ẩn do chính anh tôi nói mà tôi không kịp hỏi lại, nhưng qua tên những người trong gia đình được nhắc lại một cách ngẫu nhiên qua cách xưng hô, sự hiểu biết về tính cách từng người lúc còn sống, cách tâm sự và tâm tư tình cảm của người nói, tôi nhận ra đúng là anh tôi và em tôi. Người khác dù biết rõ gia đình tôi đến mấy cũng không thể sáng tác một kịch bản như thế, huống hồ là cháu Hằng, người tôi mới gặp lần đầu. Cháu chỉ đơn thuần đóng vai một người phiên dịch, chăm chú lắng nghe, hỏi lại cho đúng rồi nói lại. Cháu hỏi han vâng, dạ, trao đổi với người chết như nói chuyện với người sông đang ngồi trước mặt, hoàn toàn không phải là cô đồng nửa tỉnh nửa mê.
Nếu thừa nhận người đang nói chuyện đúng là anh trai tôi và em tôi thì không thể không thừa nhận: sau khi người ta chết đi vẫn còn lại cái gì đó mà ta quen gọi là linh hồn. Nhưng linh hồn là gì, tôi tự hỏi. Nó phải tồn tại dưới dạng vật chất nào đó thì cháu Hằng mới nhìn thấy và nhận diện được qua tấm ảnh. Nó phải phát ra tiếng nói ở một tần suất nào đó thì cháu Hằng mới nghe thấy và nói lại cho tôi. Đối với tôi nó là vô hình nhưng đối với cháu Hằng thì nó lại hữu hình. Đối với tôi nó là câm lặng, nhưng đối với cháu Hằng thì nó lại phát ra những âm thanh có thể nghe thấy được, những âm thanh chuyển tại đủ cả những sắc thái sống động của tình cảm, của tư duy, hệt như tiếng nói của người sống vậy.
Nếu linh hồn là một dạng vật chất có hình thức và khả năng phát âm thanh thì nói theo triết học – nó thuộc phạm trù “tồn tại” mang tính khách quan, chứ không phải thuộc về phạm trù “ý thức” mang tính chủ quan. Nhận biết được nó hay không nhận biết được nó tuỳ vào khả năng của từng người.
Cháu Hằng có khả năng nhận biết được nó mà tôi có quyền phủ nhận sự tồn tại của nó? Đối với tất cả những gì mà ta chưa có đủ khả năng nhận biết được đều vất cào cái sọt rác mê tín dị đoan, thì khoa học còn gì để làm, còn gì để khám phá? Lâu nay tôi đinh ninh mình là duy vật, hoá ra chính mình lại là duy tâm chủ quan: “Cái gì ta cho nó tồn tại thì nó tồn tại, cái gì ta cho nó không tồn tại thì nó không tòn tại”, chỉ là mê tín dị đoan.
Lần đầu tiên trong đời tiếp xúc với linh hồn, tôi nhận ra như thế, hoặc suy ra như thế. Tuy nhiên cũng phải còn chờ vào kết quả cuộc đào bới kế tiếp mới kiểm nghiệm được những thông tin do linh hồn cung cấp là đúng hay sai.
Vùng đào bới tiếp lại trùng với vùng đào bới do anh Nhã chỉ dẫn. Vì vậy cũng là một dịp để kiểm nghiệm lại trận đồ bát quái của anh.
Hy vọng và hoài nghi lẫn lộn, tôi nóng lòng chờ đến hẹn của cháu Hằng để cùng đến La Tiến. Cuối cùng ngày ước hẹn cũng đã ấn định 17/8/1999.

Ngày 17/8/1999 - Cuộc đào bới lần thứ hai.
Ngay sau khi nhận được điện của cháu Hằng, tức là bốn ngày trước khi tiến hành cuộc đào bới lần thứ hai, tôi cử chú Quỳnh cùng anh Tân Cương và bà Tiến làm các công việc chuẩn bị. Khi còn cách La Tiến 40 cây số, anh Tân Cương gọi điện cho anh Nhã. Anh rất mừng khi biết Hằng vào cuộc. Lần này anh cho anh Tân Cương một tín hiệu mười giờ hôm đó sẽ có hai con bươm bướm màu bay lượn quanh mộ rồi đậu lại, đánh dấu chỗ đó.
Đến nhà ông Điển đúng hẹn, anh Tân Cương ra gốc nhãn ngồi. Cái hố mà chúng tôi đào hôm trước nay đã được lấp bằng. Một lát hai con bướm đen đốm hoa bay đến, rồi một con bay đi, một con đậu lại trên cành nhãn. Anh Tân Cương chiếu thẳng cành nhãn xuống đất, cắm một cây que đánh dấu lại, cành que cách chỗ tôi đặt quả trứng hôm trước hai mét ra phía bờ ao. Ông Điển đứng bên tường theo dõi, tủm tỉm cười. Vào trong nhà ông mới kể, sau lần đào bới hôm trước, ông mời “thầy” về cúng, “thầy” bảo mộ cô cũng nằm chỗ cây que đó.
Nghe anh Tân Cương thuật lại, tôi chỉ biết ghi nhận. Tất cả còn phải chờ kết quả cuộc đào bới kế tiếp. Nhưng nếu đúng thì thật kỳ lạ. Anh Nhã ơ tận Sài Gòn, làm sao điều động được con bướm đến một điểm chỉ cách thành hố một mét? Điểm ấy đúng như anh chỉ đạo lần trước là phát triển về hướng nam, nhưng không phải về hướng nam nửa mét như tôi thực hiên, mà xa hơn. Còn bà “thầy” vườn? Chẳng nhẽ đất nước này cũng có nhiều người có tài năng kì bí chứ không phải rặt một hạng người buôn bán thần thánh nhảm nhí.
Trong những việc tôi nhờ anh Tân Cương, có việc điều tra xem danh sách liệt sĩ của xã, có ai tên Nguyễn Thị Bê. Anh thất vọng kể lại, chẳng những lục sổ sách, mà còn đi hỏi rất nhiều cụ già trong làng, không đâu biết có một cái tên như thế, đối với tôi thì sự thất vọng càng lớn. Vậy là em gái tôi nói sai, cả anh tôi nữa, thậm chí còn nói cụ thể là chị ấy là liên lạc, là cấp dưỡng của đội du kích. Em gái tôi và anh trai tôi thì tôi biết là không thể nghi ngờ được. Vậy dấu hỏi phải đặt vào người nói: có thật người nói là em gái tôi và anh tôi không?
Tối hôm 16/8 tôi không quên thắp hương và báo cáo với anh rằng sáng sớm ngày mai chúng tôi sẽ về La Tiến tìm mộ em Khang.
Đến nơi chị tôi theo đúng lời dặn của anh Sơn, bày hoa quả vào mâm đặt lên tường hoa, cháu Hằng khấn vái mời. Khấn xong, cháu cầm bó hương đi ra gốc vải (Cách gốc cây nhãn sáu mét về hướng đông cả hai cây đều sát bờ ao), ngắm nghía rồi cắm hương xuống đất. Lấy bó hương làm tâm, cháu vạch một cái hố hình chữ nhật để đào. Sau này cháu bảo tôi: khi cháu đang khấn thì thấy bác Sơn và cô Khang đứng ở gốc cây vải, cô vẫy cháu rồi chỉ cho cháu chỗ cắm hương, đầu và chân ngôi mộ. Nhìn bó hương của Hằng tôi thấy nó cách bó hương cũ ba mét về phía bờ ao, nhưng lại lui về hướng tây đông như cái hố hôm trước mà đầu về hướng tây bắc, chân về hướng đông nam, sát gốc cây vải, nghĩa là gần như vuông góc với cái hố hôm trước. Cái hố mới nằm ngoài hình tam giác hôm trước, cạnh của nó là đáy của hình tam giác nối dài ra phía bờ ao.
Trong khi thợ đào chuẩn bị làm việc, Hằng đặt ảnh cô Khang dưới gốc cây vải nói: 
- Thưa cô, chỗ cô nằm, cháu đã vạch theo cô chỉ. Còn hài cốt thì như hiện trạng cháu nhìn thấy thì còn lại rất ít, khi bốc lên có thể mủn ra. Vậy xin cô cho phép bốc lẫn cả đất mang về. Nếu không lấy được đầy đủ thì xin cô cũng thông cảm cho. (Sau này, tôi hỏi: cháu nhìn thấy hiện trạng hài cốt thật ư? Hằng nói: cháu nhìn thấy, hồi năm 1994, tìm hài cốt của 13 liệt sĩ ở núi Non Nước – Ninh Bình, cháu nhìn thấy hài cốt bị chôn vùi dưới lớp đất sâu 4,5m. Khi đào đến độ sau 3m không thấy gì mọi người đã nản. Nhưng cháu yêu cầu đào thêm vì cháu nhìn thấy hài cốt dưới độ sâu ấy).
Cô Khang nói lần này nhìn thấy cậu Quỳnh là chị phấn khởi rồi, cậu Quỳnh mà đi thì chắc là được (lần trước Quỳnh không đi, Quỳnh là người tin vào trời phật). Còn anh Dung (tên thật tôi là Vũ Văn Dung) thì thần thánh anh ấy chẳng sợ, có khi chỉ nhiễu quan trần, còn quan âm chẳng ai giúp mình. Anh Sơn tức anh Nhung nhà mình (tên thật anh tôi là Vũ Văn Nhung) cũng ở đây suốt từ sáng. Anh cứ bảo mãi sao Quỳnh chưa đến, anh trách cháu An, nếu nó mà kiên trì, bình tĩnh thì đã đưa cô về từ lần trước rồi (cháu An được uỷ nhiệm đi tìm mộ ngày thứ ba lần trước – “để thu dọn chiến trường”)
Cháu Hằng hỏi: Ai là Hậu? Cô gọi chị Hậu. Chị tôi vội chạy trong nhà ra, cô Khang nói tiếp: - Chị xuống đây với em mà không ra với em, mà cứ ngồi trong ấy, hài cốt em thì không còn nguyên vẹn. Nhưng chị hốt cho em một nắm đất về quê mình thì em cũng mừng rồi. Ở đây tuy có nhiều chị em đồng đội nhưng không phải là ruột thịt, cả năm cũng chẳng có ai đến thắp cho một nén hương. Chẳng nhẽ ở đây quấy quả nhà ông An mãi!
Bác Sơn nói cứ hốt cho bằng hết dù ít dù nhiều thì cũng là máu thịt em mình. Không bỏ vừa trong tiểu thì đắp lên mộ cho em. Cái con Uyên là người hợp với cô nhất, được cô cho nhiều lộc nhất, đang lẽ hôm nay nó phải đi mới phải (Uyên là con gái út tôi, nó đã đi hôm đầu tiên. 
Anh Tân Cưong hỏi: Cô biết cháu là ai không? 
Cô Khang nói tiếp: Nếu tôi không biết anh Cương thì hoá ra tôi vô tình quá. Anh lăn lộn với tôi nhiều. 
Bác Sơn bổ sung: Thằng Tuấn Anh chưa chắc đã lăn lộn với cô bằng anh Cương (Tuấn Anh là thằng con thứ hai của tôi, nó sinh ra mấy ngày sau khi anh tôi hy sinh). 
Tân Cương hỏi lại: Ai an táng cô cô có biết không? Nhiều người không tin là thi thể cô có thể trôi dạt vào đây. Cô vừa nói đến ông An vậy ông An là ông nào, ở đâu? 
Cô Khang nói: Nếu có cách nào làm cho cụ Đặng Đình Giám sống lại thì gia đình mình khỏi mất công tìm kiếm. Rất tiếc là cụ đã ở âm phủ mất rồi. Em bị chúng nó ném xuống sông, khi xác nổi lên, gặp lúc triều cường, dạt vào một khúc quanh được cụ Giám vớt lên, kéo qua một cái rãnh nước rồi dừng lại. Cụ bảo: mấy vị chết ở đây, nếu đói khát, khi nào nhà ông An lên hương thì vào xin lộc.
Được chị động viên, Quỳnh kể về quá trình tìm hài cốt của chị, trong đó có đoạn: Chị Tiến và chị Nhương báo cho gia đình mình đến nhận bộ hài cốt chôn ở gốc đa phía trên bến đò. Người ta bảo cô Chử Thị Dung ở Thái Bình đã tìm thấy bộ hài cốt của bố cô chôn cùng với người phụ nữ đó. Để xác minh em đã theo cô ấy từ Thái Bình lên tận Vũng Tàu. Nhưng cô ấy nói rằng chính cô ấy chưa tìm thấy hài cốt của bố cô ấy.
Nghe xong cô Khang nói: chị nói cho em biết cái mộ ở gốc cây đa ấy nếu là một nữ du kích mà nhận là chị thì còn được, đằng này không phải mộ một nữ du kích sao ngộ nhận thế được! Còn Chử Thị Dung, chính bố cô ấy kể với chị rằng em đã tìm gặp cô ấy. Ông nhờ chị nhắn với em nhắn với cô ấy đến tìm mộ bố mình. Bố cô ấy cũng nằm ở đây.
Rồi cô chỉ ngôi mộ dưới chân cái hố sắp đào. Đó chính là ngôi mộ của người đàn ông bị bắt từ Hải Dương về. (Sau này Hằng kể lại: người đàn ông lúc ấy đứng bên cạnh cô Khang, xưng tên và nói mấy câu, nhưng nói nhỏ quá, cháu nghe không rõ. Khi cô Khang nói lại cháu nghe mới rõ. Khi cô chỉ ngôi mộ cháu nhìn xuống thì không có đầu).
Đến đây cháu Hằng nói tiếp xin phép cô cho bắt đầu.
Đào hết lớp đất “vựợt thổ” thì cháu Hằng bảo ngừng đào. Cháu nhảy xuống hố lấy dầm gạt nhẹ những lớp cát đen. Chỉ hơn một gang thì vướng vào “thanh củi mục”. Nạy lên, thả vào nước thì nhận ra đó là khúc tre già, thịt tre đã bị phân huỷ hết nhưng đốt tre và xơ tre thì vẫn còn nguyên. Khúc tre dài hơn một gang tay, đường kính tương đối lớn, không thể tra vừa bất cứ loại xẻng nào hay cuốc nào, chỉ có thể tra vừa cái thuổng, có thể loại thuổng hình lưõi mai (mặt phẳng, bề ngang nhỏ hơn lưõi xẻng nhưng dầy hơn lưõi xẻng).
Mọi người đều kinh ngạc khi biết thông tin về cái thuổng đã được thông báo trước. Riêng tôi thì mừng khôn xiết, vậy là thông tin đáng tin cậy nhất để nhận biết nấm mộ này đích thực là em gái tôi. Cái thuổng đã được vùi chôn dưói đất 50 năm, người đời không thể nguỵ tạo ra nó được. Dấu hiệu đó lại được linh hồn mách bảo cho tôi chín ngày trước khi mộ được khai quật, người đời không ai nhìn thấy mà mách bảo được. Còn sự chính xác đạt đến mức chi tiết. Thú thật khi nghe anh tôi nói đến cái thuổng tôi nghi ngờ, hoặc là anh tôi nhận định sai hoặc là cháu Hằng dịch sai. Vì người ta đào huyệt phải dùng mai, xẻng, cuốc, chứ ai lại dùng thuổng? Lúc ấy tôi nghĩ đến loại thuổng thông dụng nhất là loại hình vũm để đào gốc cây, chứ không nghĩ đến loại thuổng hình mai dùng để đào đất, tác dụng giống như cái mai nhưng khoẻ hơn cái mai. Loại thuổng này cũng có nơi gọi là mai.
Sau khi tìm thấy cái thuổng, chỉ cần gạt vài lớp cát mỏng là thi hài em tôi hiện ra. Khi chôn người ta đặt em tôi nằm nghiêng, người hơi cong, mặt hướng ra vụng Quạ, đầu hướng về phía Tây Bắc, chân hướng về phía đông nam. Trên sọ là một mảng tóc đen nhánh, rồi đến đốt xương cổ rất rõ. Nhưng gặp không khí thì tóc vụn ra ngay, những đốt xương nguyên vẹn gãy ra như những chiếc bánh quy ngấm nước. Cháu Hằng hỏi cô Khang: Răng cô đâu, để cháu mang đi đãi. Cuối cùng thu được năm chiếc răng. Tôi xem đúng là răng trắng nhưng do ngâm trong bùn nên ngả màu xám và đen xĩn. Theo đúng mệnh lệnh của anh Sơn, chúng tôi bốc tất cả số bùn mang theo hình người nằm cong bỏ vào túi mang về. Cháu Hằng tìm mãi không thấy chiếc còng sắt, cháu hỏi cô Khang, cô cũng không chỉ được. Tôi nhận định có thể nó đã rỉ ra thành đất sau 50 năm ngâm trong bùn.
Lúc này cháu Hằng không dịch, nhưng hôm sau cháu nói với tôi: Lần này đi tìm mộ cô Khang, cháu thương cô quá. Lúc tìm được răng rồi, mấy người trên miệng hố nhắc cháu tìm móng tay. Cháu bèn hỏi móng tay cô chỗ nào, cô chỉ cho cháu. Cô giơ hai bàn tay lên trước mắt cháu nói: chúng rút hết móng tay cô rồi còn đâu mà tìm!
Tôi vô cùng kinh ngạc vì điều này chỉ mình tôi biết. Sau khi em tôi bị giặc sát hại, huyện uỷ Phù Cừ có gửi riêng cho tôi một báo cáo gửi lên cấp trên (trước đó tôi là phó bí thư tỉnh uỷ Hưng Yên, có nhiều gắn bó với huyện Phù Cừ) kể rõ em tôi bị bắt, tra tấn và bị giết như thế nào. Trong những cực hình mà địch sử dụng có việc dùng kìm rút hết móng tay em tôi rồi cắm kim vào đó, đí diện vào hai đầu vú, thọc gậy vào âm hộ, treo ngược lên cành cây mà đấm đá. Tôi không muốn một ai khác trong gia đình phải chịu cảnh thương xót như tôi, vì vậy đã dấu kín những tin này. Nay được cháu Hằng kể lại tôi mói tin chắc đích thực người nằm dưới mộ là em gái tôi.
Cháu Hằng lúi húi dưới hố chỉ đạo mấy người giúp việc, thỉnh thoảng lại nhô đầu lên nói chuyện với những người trên miệng hố. Bỗng Hằng nói có một cụ cứ tủm tỉm ngồi nhìn, không biết phải cụ Giám hay không, rồi cháu Hằng cất giọng lễ phép nói: - Cháu chào cụ ạ. Cụ cho phép cháu được biết quý danh.
Lắng nghe hồi lâu Hằng nói như reo lên:
- Cụ An!
Rồi Hằng giới thiệu về mình cùng với gia đình tìm hài cốt cô Khang, đề nghị cụ giúp đỡ.
Cụ An nói: Tôi là hàng xóm, nhà tôi ở vệ đê bên kia dầm, lần nào các bác về đây tôi mà chả biết. Tôi nhớ đêm hôm ấy, vào lúc gà gáy canh hai, ông Giám qua nhà tôi hỏi mựon cái mai. Tôi hỏi để làm gì, ông Giám: “suỵt, để chôn người chết trôi”. Tôi nhìn ra thì thấy một cái xác cụt đầu, biết ngay là cán bộ cách mạng. Ở chỗ kia kìa, có cái rãnh nước, ông Giám kéo mấy cái xác vào rãnh nước, đến đây là chân ruộng mạ. Ông Điển mới ra ở đấy thôi, chứ ngày ấy ruộng mạ thuộc người khác.
Cháu Hằng đưa ảnh cô Khang hỏi cụ có nhận ra người chết không. 
Cụ An nói: Bà này là thân nhân của một ông cán bộ trước là tỉnh uỷ ở đây. Nhưng chôn cất như thế nào, thì cả tôi, cả ông Yên, ông Trọng đều không biết gì đâu. Chỉ có ông Giám mới biết thôi, để tôi đi tìm giúp ông Giám.
Một lúc lâu, cụ An đi cùng với cụ Giám về, Hằng nói nhỏ: cụ này già thế nhỉ. Rồi Hằng tự giới thiệu và nêu ra lời đề nghị nhận diện người chết qua tấm ảnh, cái còng để chỗ nào?
Cụ Giám nói: Đêm tối tôi chỉ thấy loáng thoáng thôi. Xác ngâm lâu đã trương lên rồi, mặt mũi thì nhìn không rõ. Tóc thì không vấn lên như thế này đâu mà cắt ngang gáy như cô bây giờ. Nhưng xoã xượt dưới nước. Lần ấy tôi đem về đây không phải một người, mà ba người cơ. Tôi kéo người phụ nữ lên trước cứ thấy vướng. Thì ra tay trái cô ấy xích vào tay phải người đàn ông. Khi chôn thẳng chẳng lẽ lại chôn hai người một hố, tôi tuột tay một người ra khỏi cái vòng. Tôi chôn người phụ nữ ở đây, còn người đàn ông thì ở chỗ đằng kia. Sức tôi chỉ kéo được đến thế. Khi chôn thì xác đã cứng, không nắn thẳng ra được đành đặt hơi nghiêng, mặt hường ra sông cho mát mẻ. Còn người phụ nữ nữa tôi chôn ở góc kia (cụ chỉ ra gốc nhãn) nhưng bây giờ đã tụt xuống ao rồi. Hình như lúc chết bà ấy có chửa.
Tân Cương nói: Một số người không thể hiểu nổi tại sao xác chết trôi sông lại có thể trôi vào được đến đây.
Cụ Giám nói: Con mẹ Tiến cứ mồm năm, miệng mười, chứ làm sao nó biết được bằng tôi. Ở ngoài kia nước cả, không đem vào đây vùi thì làm sao được?
Cụ nói tiếp: Điều này thì tôi nghe phong thanh thôi. Tụi lính dõng đồn bảo người phụ nữ bị giết đêm hôm đó là bà bé của tay xếp bốt.
Cụ An cãi lại: Ông chỉ được cái ăn no vác nặng, chẳng hiểu gì hết. Có lần chôn một anh bộ đội ông lại bảo là thằng lính dõng. Tôi thì không được kéo xác như ông nhưng chuyện này thì tôi biết rất rõ. Có một người phụ nữ du kích bị bắt, thằng xếp Bách dụ làm vợ bé không được nó đã giết đi. Ở bốt này có một thằng quan thầy ngưòi Pháp, còn thằng Bách tuy là tay sai nhưng được goị là xếp, thằng Bách lấy vợ người La Tiến nên dân làng biết rõ về nó.
Trời đã xế chiều. Mọi ngưòi hối hả thu dọn.
Hằng nói: - Bác Sơn bảo còn cái chân của cô, moi sâu mà bốc. Bác bảo cứ bình tĩnh! Sáng giờ bác đã rải quân canh phòng từ đầu làng rồi, không cho phép quấy rối (Tôi không biết thực hư thế nào nhưng lần đào bới trước có cả trăm người vây vòng trong vòng ngoài, còn hôm nay chỉ thấy có mấy đứa trẻ)Bác bảo được bà chị xuống với em chẳng được việc gì chỉ ngồi khóc.
Hằng cải chính: - Bác Sơn nói đến bà chị - Bác Nghĩa. Từ nãy giờ bà già cứ ngồi khóc lóc: nhà có sáu chị em gái ai nấy đều có phận, đâu đến nỗi nào, riêng em tôi giỏi giang xinh xắn nhất thì đến nỗi này! Không tìm được xác em tôi, tôi chết cũng không nhắm mắt được. Bây giờ tìm được em thì mình cũng là người thiên cổ rồi.
Bất chợt nghe thấy con số sáu, tôi vội bấm đốt ngón tay: sáu hay năm nhỉ? Đúng là sáu. Bác Sơn như hiểu ý anh Tân Cương nói: Cho cái cô Năm nhà tôi xuống đây chỉ được cái bù lu bù loa, chẳng cho ai làm gì, tính con ấy nó vậy!
Cô Khang nói: sau lần gặp em, ông anh tôi đã về bốc cát lập ngay thành bảy bát hương, mỗi người một bát! Đúng là một cuộc cách mạng với ông anh tôi! Em Khang cảm động ghi nhận tấm lòng của anh Phương và chị Thuỷ.
Cụ An nói: Bà cô là liệt sĩ sao không làm lễ truy điệu rồi hãy mang về quê?
Bác Sơn nói hôm nay cập rập quá, gia đình chuẩn bị không kịp. Hôm nào đưa về nghĩa trang liệt sĩ của Huyện làm lễ truy điệu.
Cô Khang nói: Cậu Quỳnh còn giữ giấy tờ, bằng khen của chị không? (Quỳnh đáp: bằng khen và huân chương của chị em vẫn còn giữ). Hôm này làm lễ truy điệu của chị cậu nhớ mang theo.
Tôi thật không ngờ người chết năm mươi năm mà vẫn còn quan tâm đến những vinh dự của mình nơi trần thế.!
Hằng nói: - Cô cười bảo: Cụ Giám ạ, cụ nói oan quá, đã được làm bé ngày nào đâu! (mọi người ai cũng cười). Nhưng cụ nói đúng đấy. Ngày xưa ai cũng gọi là cô Khang tóc dài, nhưng khi bắt chúng cắt hết tóc. Trong việc chôn cất các liệt sĩ ở đây, cụ là người có công nhất. Chúng tôi rất biết ơn cụ.
Công việc thu vét hài cốt xong xuôi thì mặt trời sắp lặn. Mọi người vây quanh gốc vải, nơi đặt bàn thờ tạm. (Sau này Hằng kể lại: suốt ngày cô Khang và bác Sơn quanh quẩn ở đó, buổi chiều thì bác Nghĩa cũng ngồi đó ôm lấy tấm ảnh, cụ An và cụ Giám thì ngồi xa hơn về phía tường hoa).
Cô Khang nói lời cảm ơn với gia đình ông Điển, nhờ bác Đạt chuyển lời hỏi thăm đến chị Nhường, chị Tiến.
- Nay tôi về Mỹ Hào quê tôi, về với anh tôi, nằm lại đây chỉ còn lại một bộ hài cốt, gia đình người ta sẽ đến bốc về. Chỉ còn chị Bê, hài cốt không có gì. Nhờ bác Điển hương khói cho vong hồn chị, chị sẽ phù hộ cho. Hồi đi hoạt động chị lấy tên là Nguyễn Thị Bê nhưng tên thật là Nguyễn Thị Út (mấy người làng ồ lên! thế mà tìm mãi!).
Chúng tôi đưa hài cốt em về nhà và hai hôm sau, đưa về nghiã trang liệt sĩ của huyện, có mặt đông đủ họ hàng nội ngoại. Sự xúc động sau khi đón ngưòi thân sau năm mươi năm cách biệt xen lẫn với niềm tự hào về người em gái của dòng họ đã hiến cuộc đời mình cho cuộc sống ngày hôm nay.
MÒ TÌM TRONG BÍ ẨN

Những thông tin đáng tin cậy:
Từ hôm gặp được anh Nhã đến hôm bốc được hài cốt là một hành trình mò tìm trong bí ẩn. Những thông tin do anh Nhã đưa ra đối với anh cũng là điều bí ẩn; trúng hay trật chính anh cũng không biết. Còn linh hồn, chỉ có cháu Hằng nhìn thấy và nghe thấy. Cháu nói lại những điều cháu nghe, còn thực hư thế nào cháu đâu có biết. 
Cuộc hành trình đầy bí ẩn đã buộc tôi phải nhờ đến hai nhà ngoại cảm nổi tiếng, mỗi người một phương pháp: vẽ mộ và gọi hồn. Cả hai đều đưa tôi đến cùng một kết quả. 
Hai mươi bốn ngày mò tìm trong bí ẩn, chỉ đến ngày cuối cùng – ngày bốc mộ - mới kiểm chứng được những thông tin. Tập hợp các thông tin lại, tôi được một hệ thống thông tin đáng tin cậy, một số có thể xem là vật chứng, bằng chứng.

Những thông tin thu đươc qua các linh hồn:
1. Điều đầu tiên đặt ra với tôi: Có đúng là những linh hồn người thân đang nói chuyện với tôi không? Cháu Hằng nhận dạng được các linh hồn, cả những lúc cười, cả vẻ buồn vui. Linh hồn cô Khang và bác Sơn được cháu Hằng nhận diện qua ảnh, còn tôi không nhìn thấy, tôi kiểm tra bằng những điều linh hồn nói ra. 
Hôm đầu tiên gọi hồn, lòng tôi đầy nghi ngờ, tôi thủ sẵn trong túi tấm ảnh của anh Sơn, định bụng sẽ đưa ra hỏi linh hồn, Nhưng ngay khi nhìn thấy cô Khang, cháu Hằng đã nói với tôi là có một người đàn ông, một thanh niên đi cùng với cô. Nếu là một cô đồng gà mờ thì dại gì mà “đẻ số” cho chính mình như thế? Tiếp đến, cô Khang nói ngay người thanh niên đi cùng em chính là anh Sơn đấy. Vậy là tôi đã kiểm tra được linh hồn cô Khang qua anh Sơn và không những thế nhờ cháu Hằng nhận diện cả hai linh hồn qua ảnh.
Ngày đầu tiên, hai linh hồn nhắc đến năm người trong gia đình tôi, với sự hiểu biết rất chính xác về tình cách của từng người. Ngày thứ hai tức ngày 17, hai linh hồn nhắc đến mười người trong gia đình tôi, cũng với sự hiểu biết chính xác như thế. Cũng cách xưng hô cũng thể hiện rất đúng vị thế, thái độ, và tình cảm của người nói và người nhắc đến.
Các con tôi, có ý kiến nói: Bích Hằng đã điều tra về gia đình mình từ trước rồi. Sự nghi ngờ đó, tôi đã biết vô căn cư, mặc dù cò điều tra đi nữa cũng không thể đặt vào miệng người nói mà không phạm sai lầm. 
Ngoài những người trong gia đình cô Khang nhắc đến chị Tiến, chị Nhương là những người quen biết cũ, nhắc đến anh Tân Cương, anh Đạt là những người không quen biết nhưng đã góp sức vào việc tìm mộ gần đây.
Ngày 17, xuất hiện bốn linh hồn nữa. Lần này thì không có ảnh để nhận diện. Nhưng những điều mà linh hồn nói ra phải thừa nhận là đúng như người chết đang nói. Bà già ngồi một chỗ khóc than kể lễ về sáu chị em gái, đúng là chị cả của tôi - chị Nghĩa. Cụ An là người cho mượn cái mai và chứng kiến cuộc chôn cất, cụ Giám là người chôn cất, mỗi cụ nói ra những điều mà thể hiện đúng tư cách của mình, cả linh hồn của người đàn ông họ Chử, tuy nói không nghe rõ, nhưng nhờ cô Khang dịch lại nói với chú Quỳnh nhắn với con gái ông ở Vũng Tàu. Khớp lại những điều mà linh hồn đã nói ra thì đều xác nhận hài cốt bốc lên đúng là em gái tôi. 
2. Cái thuổng là một vật chứng xác nhận thông tin, mà linh hồn anh tôi cung cấp đồng thời xác nhận ngôi mộ đúng là mộ em tôi. 
3. Răng trắng chuyển sang màu đen xỉn là một vật chứng xác nhận thông tin của linh hồn em tôi, đồng thời xác nhận đúng là hài cốt em tôi. 
4. Thông tin của em tôi về chị Nguyễn Thị Bê, khi biết được tên thật là Nguyễn Thị Út, đã được xác nhận, chị nằm trong danh sách liệt sĩ của xã. 
5. Thông tin của em tôi về cái còng sắt khoá tay em tôi với tay người đàn ông đã được xác nhận qua lời cụ Giám, tuy nhiên vật này đã bị rỉ ra thành đất.
6. Thông tin của em gái tôi về vị trí ngôi mộ cách cái hố đào lần trước 3 bước chân, soải dài ra bờ ao đã được xác nhận trên thực tế. Thông tin của em tôi về ba ngôi mộ sát gần nhau, gần như nằm một đườc thẳng, trong đó mộ em tôi nằm giữa, điều này khớp với chỉ dẫn của cụ Giám. 
7. Thông tin về người dân vớt xác “thực ra là dân phòng giả dạng”, điều này khớp với thành tích kháng chiến mà cụ Giám nhận được, đồng thời khớp với lời kể của cụ Yến về vai trò mà làng giao cho cụ Giám. 
8. Buổi sáng (ngày 17), khoảng mười giờ cô Khang nói rằng người vớt xác là cụ Đặng Đình Giám, thì buổi chiều khoảng ba giờ, chính cụ Giám xuất hiện, kể về việc cụ đã vớt và chôn thế nào.
9. Buổi sáng cô Khang kể lại việc cụ Giám dừng lại bảo: “khi nào nhà ông An lên hương thì vào mà xin lộc”, rồi thì buổi chiều cụ An xuất hiện nói về cụ Giám vào mượn cái mai, rồi kéo cái xác qua ruộng mạ như thế nào.
10. Khi xem ảnh cụ Giám bảo người phụ nữ mà cụ chôn cất không để tóc dài như trong ảnh mà tóc đến gáy như cô Bích Hằng. Cô Khang đã xác nhận đúng là bọn địch đã cắt tóc cô. Mớ tóc mà trùm lên sọ chúng tôi thấy được cũng là tóc ngắn. 
11. Cụ Giám tả lại khi chôn cụ đã đặt cái xác hơi nghiêng vì không nắn thẳng ra được, mặt hướng ra sông cho mát mẻ. Trước đó, chúng tôi tìm thấy hài cốt ở tư thế ấy. 
12. Cô Khang kể với cháu Hằng về móng tay cô. Điều này đối với tôi là một bằng chứng vô cùng quý giá để khẳng định hài cốt là em tôi. 
13. Cô Khang kể với cháu Hằng về việc ông anh bốc cát lập bảy bát hương. Điều này tuy chỉ là tiểu tiết nhưng chứng tỏ linh hồn em tôi biết việc tôi làm, kể cả việc tôi nhồi cát vào bảy bát hương trước đó. 

NHÌN LẠI CÁI “TRẬN ĐỒ BÁT QUÁI” CỦA ANH NHÃ: 
Với những thông tin đáng tin cậy thu nhập đựoc qua các linh hồn, kết hợp với thông tin do dân làng cung cấp qua cuộc điều tra của chúng tôi, tôi nhìn lại trận đồ bát quái của anh Nhã. Mọi thông tin anh cho đều đúng, nhưng không sắp xếp theo một trật tự logic nên khó hiểu, rối mù như một trận bát quái. Bây giờ việc đã thành tôi hiểu nó như sau: 
1.Trước tiên phải tìm cái vụng xoáy. Chính nhờ cái vụng này mà xác em tôi khi còn chìm dưới đáy sông, đã bị cuốn vào. Cuối tháng sáu đang là mùa nước, mực nước sông Luộc chưa lên đến mức báo động, thường cách mặt đê chỉ vài mét. Lúc xác nổi lên gặp lúc triều cường thì không trôi tuột đi mà trôi vào một khúc quanh của đê. Cái vụng xoáy đó chính là vụng Quạ. Khúc quanh của con đê cũng ở đó. 
Vào mùa nước thì giải đất bãi ngoài đê, kể cả cây cối đều ngập chìm dưới nước. Không thể chôn trên đất bãi được, mà kéo xác qua đê vào đồng. Nhưng đến chân đê lại là một vùng nước trũng, tháng sáu đang là mùa mưa, ruộng trũng bị ngập nước, vì thế phải kéo xác vào vùng chân mạ cao hơn. 
2. Ông Giám kéo ba cái xác qua đê không mấy khó khăn gì, vì mặt nước gần sát mặt đê. Nhưng nhà ông ở mãi cuối làng, cách đó một cây số, ông phải tạt vào nhà ông An để mượn cái mai. Khi dừng lại ông nói với cái xác chết về việc xin lộc. Ông An mà anh Nhã nói tôi, không phải là anh An – con đã tiếp chúng tôi mà là ông An bố, tức cụ An, cụ đã mất cách đây bốn mươi năm. Cái quán ông An không phải là cái nhà anh An bây giờ, anh chỉ mới ra đó chừng mười năm nay thôi. Bố mẹ anh vẫn ở cách đó ba trăm mét, sát mép có cái đầm sen về phía tây. Ông làm nghề lái đò ở La Tiến, còn bà làm hàng xáo và bán bánh đúc. Cái nhà tranh lụp xụp của ông bà đồng thời là cái quán bán bánh đúc. 
3. Mượn được cái mai rồi ông Giám đi trên con đường bờ vùng, còn xác thì kéo trên cái lạch nước gần nhà ông An, đến cái cống ở cửa chùa, để đến vùng chân mạ nay là đất của cụ Nhờ và ông Điển. Con đường bờ vùng và cái lạch nước nay đã biến mất trong vùng cái đầm sen. Cái cống lấy nước vào ruộng mạ thì nay vẫn còn, nhưng dân làng đã ngăn cách nó với cái đầm sen, nó không còn tác dụng lấy nước vào ruộng mạ nữa. 
4. Hồi cải cách ruộng đất vợ chồng bà Nhờ được chia một mảnh ruộng mạ của địa chủ mà nay là đất của ông bà Điển. Năm 1969, ông Điển được hợp tác xã chia cho một mảnh đất để làm nhà ở. Mấy năm sau bà Nhờ và nhiều nhà trong vùng được chia đất ở. Đó chính là cái xóm mới dân mới ra ở khoảng 20 năm. Mộ nằm trên đất cô Nhương, đúng ra là cô Nhờ. Cái âm mà Nhã nghe lơ lớ là như Nhường, Nhượng, Nhương thực ra là Nhờ - một cái tên rất quê nhưng cũng rất ít gặp. 
Đường xá mà anh Nhã vẽ trên bản đồ thì anh Đạt và cụ Yến nhận ra ngay nhưng cụ Yến nhận xét nó được vẽ theo đường ngày xưa, ang áng như bây giờ thôi. 
5. Tất cả những thông tin đến với anh Nhã đúng như cách diễn đạt cách đây năm mươi năm, sớm nhất cũng là hai mươi năm, Những thông tin đến với anh không theo trình tự thời gian và cũng chẳng có mối liên kết nào giữa các hiện tượng, thành thử có lúc tôi nghĩ đó chỉ là “trận đồ bát quái” do anh nghĩ ra.
6. Những dấu hiệu và tín hiệu cũng rất đúng, nhưng lại là hiện tượng mới xảy ra, đang xảy ra hoặc sắp xảy ra. Cái gốc cây đổ là cây nhót mà ông Điển mới chặt, nhưng chưa đánh gốc. Năm cây cỏ dại và mười bông hoa màu tím nhạt thì sớm nhất cũng chỉ cho ra hoa được một tuần trước đó. Rồi bé gái mặc áo xanh, con chó vàng nằm một chỗ như ốm, rồi cái nhà 4 mặt đều sơn trắng lốp, trước nhà đầy hoa đỏ… Tất cả đều đúng, nhưng tại sao anh Nhã lại trúng thế, chính anh cũng không hiểu thì làm sao tôi hiểu được.
7. Cái bản đồ anh Nhã vẽ sau này tôi mới hiểu chỉ dùng để định hướng thôi, không xem là bản đồ địa chính. Có những chỗ rất đúng, vẽ chi tiết, rẽ trái 60m, rồi rẽ phải 45 mét. Nhưng cái quán ông An thì không nằm cạnh đường cũng không nằm cạnh ngã tư, mà nằm ở bên kia một cái ao to, tuổi tác của cô Nhường, ông An cũng chỉ áng chừng không chính xác. 
8. Địa điểm của ngôi mộ rất đúng nhưng chỉ đúng trong một hình vuông có cạnh năm năm. Ngoài hình vuông đó sẽ chạm vào hai ngôi mộ khác Trong khoảng diện tích 25m2 đó phải đào một cái hố rộng 2,5m2 quả là không dễ gì trúng ngay. Khi vẽ bản đồ anh ghi mộ nằm cách cây đổ bốn mét. Nếu đào như thế về hướng đông đông nam thì trúng. Nhưng anh hướng dẫn về hình tam giác thì chỉ còn cách gốc cây đổ 1,5m. Khi chỉnh mộ anh bảo phát triển về hướng đông đông nam. Lần thứ hai với sự chỉ dẫn của đôi bướm màu, thì tiến về phía đông nam là đúng hướng. Nhưng nếu đào phần cuối thì mới chạm đến đầu hài cốt. Phải đào một cái hố thứ ba quay ngang theo hướng tây ghé đông nam, và lùi hẳn về hướng đông hai mét, lấy dây hoa tím chiếu thẳng ra bờ ao làm cạnh hố, mới trúng được hài cốt. Qua đây tôi hiểu tại sao anh Nhã nói: chỉnh mộ là một quá trình khó khăn đấy”. Thực tình nếu phải đào thêm cái hố thứ hai thì niềm tin và hy vọng mong manh của tôi tin vào con đưòng thần bí sẽ bốc hơi hết, không còn gì để đào tiếp cái hố thứ ba! Không nhờ được cháu Hằng theo con đường gọi hồn thì bao nhiêu công sức của anh Nhã và của tôi đều bỏ phí, xem như rơi vào tỉ lệ trật.
9. Về độ sâu cái hố phải đào thì chỉ dẫn của anh Nhã rất đúng. Chính ở độ sâu 1,5m chúng tôi bốc được hài cốt. Nhưng khi chỉnh mộ anh lại yêu cầu đào sâu hơn nữa, phải chăng chính anh cũng đang mò mẫm sự bí ẩn?

KHÁM PHÁ SỰ BÍ ẨN
Hài cốt em tôi đã được đưa tìm thấy nhưng những con đường đưa đến kết quả ấy thì vẫn là bí ẩn. Khám phá những điều bí ẩn ấy không phải dễ dàng. Tôi chỉ qua thể nghiệm của riêng mình mà tìm; một số vấn đề, một số câu hỏi để những chuyên gia về lĩnh vực ấy xem xét.
1. Tôi có căn cứ để tin rằng đã gặp linh hồn anh tôi, em tôi, chị tôi cả linh hồn cụ Giám là người chôn cất và linh hồn cụ An là người chứng kiến. Cháu Hằng đã nhận dạng được linh hồn qua tấm ảnh, thậm chí nhận diện được linh hồn qua tấm ảnh. Như vậy linh hồn phải tồn tại dưới dạng vật chất nào đó, có hình thù, có khả năng phát ra tiếng nói. Đã là một dạng vật chất thì vật lý, hoá học, sinh học, với những phương diện quang học và điện tử tinh vi hẳn sẽ có ngày tìm ra. Các nhà khoa học Việt Nam có thể đóng góp gì theo hướng đó?
2. Tôi nhận thấy linh hồn người chết vẫn có những biểu hiện tình cảm, vui, buồn, quan tâm, ước muốn (thậm chí giận dữ như cụ Giám, tranh cãi với cụ An), vẫn nhớ và kể lại những việc đã qua, kể cả việc đã xảy ra sau khi thể xác đã chết, vẫn theo dõi và đánh giá được những việc mà người sống đang làm. Như vậy linh hồn không phải là những vật vô tri, vô giác mà là những vật thể sống, có tình cảm, có tư duy. Điều này đặt ra một loạt câu hỏi: Có một thế giới linh hồn ngoài thế giới con người đang sống không? Thế giới linh hồn hoạt động như thế nào, có khả năng tác động gì vào thế giới con người đang sống? Để đáp ứng mong muốn của linh hồn người thân, người sống dâng đồ cúng lễ, tiền bạc, đồ dùng hàng ngày (dưới dạng vàng mã) là đúng hay nhảm nhí? Linh hồn có tiêu vong đi không hay tồn tại mãi mãi? Tìm lời giải đáp cho những vấn đề này, nếu chỉ dựa vào những suy luận suông thì dẫn đến những tranh cãi bất tận. Vấn đề là chứng minh.
3. Hầu hết mọi ngưòi đều không tin có khả năng nhìn thấy linh hồn, nghe thấy tiếng nói của linh hồn, nhìn thấy hài cốt vùi dưới đất dầy mấy mét. Chỉ một số ít người cháu Hằng có khả năng đó, khả năng đặc biệt ấy do cấu tạo sinh lý nào vậy? Y học nên quan tâm tìm ra lời giải đáp.
4. Nếu khả năng nhìn thấy linh hồn và nghe được tiếng nói của linh hồn có thể quy về cấu tạo đặc biệt về sinh lý của một số người thì khả năng nhận biết đựơc những thông tin bí ẩn của anh Nhã và một số người khác càng khó khám phá hơn nữa. Nhưng một khả năng giúp cho nhận dân tìm được hàng ngàn hài cốt liệt sĩ, chẳng lẽ không đáng bõ công tìm hiểu và khám phá?
5. Trong khi chờ đợi nghiên cứu thành công, thì cần có một chính sách, chế độ để những ngưòi có khả năng đặc biệt ấy phát huy tài năng nhiều hơn nữa vào việc tìm kiếm các hài cốt liệt sĩ là nguyện vọng tha thiết của hàng chục vạn gia đình. Tránh những lời bổ báng vội vã, tránh vơ đũa cả nắm, nhập cục tất cả vào số người buôn thần bán thánh, lợi dụng mê tín dị đoan. Càng nên tránh những thái độ thô bạo như: cấm đoán, bắt bớ, giam cầm. Mới chỉ cách đây năm mươi năm thôi, nhiều nhà nghiên cứu khoa học Liên Xô chỉ vì nghiên cứu gen di truyền mà đã bị tống vào nhà thương điên. Trên con đường khúc khuỷu của khoa học xảy ra biết bao nhiêu sự kiện đau lòng như thế, chẳng nên lấy đó làm răn ư? 

THAY LỜI KẾT LUẬN
Trên đây tôi đã thuật lại câu chuyên như nó diễn ra, với những nguyên liệu thô của nó, tất nhiên có gạt bỏ đi một số chi tiết rườm rà, một số câu nhắc đi nhắc lại. Tôi làm việc này là vì:
Khi biết tôi tìm được được hài cốt em tôi (mà nhiều người biết vì gương hy sinh anh dũng của cô), nhiều bạn bè, người thân đến chúc mừng tôi và thắp hương cho người quá cô. Tất nhiên là tôi phải thuật lại chuyện, dù tóm tắt cũng khá dài. Tôi bèn nảy ý định viết thành văn để người nói và người nghe tiết kiệm được nhiều thời gian mà câu chuyện thì không bị cắt xén, giữ được tính chân thực.
Khi viết gần xong thì tình cờ tôi có dịp làm quen với Giáo sư Đào Vọng Đức, Thiếu tướng – Phó giáo sư Nguyễn Chu Phác là những người phụ trách trung tâm nghiên cứu tiềm năng con người. Biết được mục tiêu nghiên cứu của anh tôi sẵn sàng gửi câu chuyện gia đình của tôi cho các anh, để trung tâm sử dụng như một tài liệu tham khảo. Với ý nghĩa đó tôi viết thêm đoạn – “Khám phá sự bí ẩn?” – hy vọng những lời bàn chầu rìa của những người ngoại đạo về lĩnh vực này (tôi chỉ là một nhà kinh tế) có chút gì bổ ích cho công việc của các anh chăng?
Hết